Top 10 loài chim bay cao nhất thế giới

Ran Mori 1875 0 Báo lỗi

Các loài chim hiển nhiên là “bá chủ” của bầu trời. Không có gì ngạc nhiên nếu chúng là những loài động vật có khả năng bay cực nhanh. Có bao giờ bạn nhìn lên ... xem thêm...

  1. Bay đạt độ cao gần 11,3 km, Gyps rueppellii là loài chim bay cao nhất từng được ghi nhận, theo The Mysterious Worlds. So với dưới mặt đất, không khí ở độ cao này rất loãng, rất ít oxy. Tuy nhiên, cơ thể của Gyps rueppellii chứa một loại hemoglobin (huyết sắc tố) đặc biệt giúp hấp thu oxy hiệu quả hơn.


    Gyps rueppellii
    thuộc họ kền kền, có chiều dài xấp xỉ 1m và cân nặng 7 - 9 kg. Sải cánh của chúng dài 2,3 - 2,5 m. Chúng có thể bay 22 dặm (gần 35,5 km) một giờ và có thể ở trên không nhiều giờ liền. Gyps rueppellii ăn xác thối, thị lực rất tốt nên có thể phát hiện xác từ vị trí rất cao. Chim này có sự phân bố rộng khắp trên toàn thế giới, được tìm thấy ở gần như ở tất cả các châu lục và nhiều quần đảo trên đại dương. Tuy nhiên vẫn có nhiều loài chim đi di cư.


    Chim Gyps Rueppellii săn mồi vào ban ngày, có kích thước từ nhỏ tới lớn với cái mỏ cong và khỏe, với hình thái thay đổi tùy theo kiểu thức ăn. Chủ yếu chim ăn nhiều loại thức ăn động vật, từ tất cả các loại côn trùng tới các loài thú có kích thước trung bình, chỉ một ít loài ăn hoa quả.


    Chim Gyps Rueppellii
    Chim Gyps Rueppellii

  2. Sếu cổ trắng hay sếu thông thường, sếu Á - Âu là loài chim phổ biến nhất trong họ Sếu. Chúng sinh sống tại hầu hết các khu vực thuộc cựu lục địa Á - Âu và cả khu vực Bắc Mỹ. Sếu cổ trắng là loài chim bay cao thứ hai thế giới, chúng có thể bay cao tới 10km. Chúng cũng là một loài chim di cư, và tuy không nằm trong danh mục sách đỏ của các tổ chức bảo tồn quốc tế nhưng chúng cũng được bảo vệ bởi Hiệp định về Bảo tồn các loài chim nước Á - Âu. Chúng thường bay thành từng đàn lớn xuống phương Nam để tránh rét vào mùa đông, tạo thành những hình chữ V. Đây là loài ăn tạp, chúng có thể ăn lá, rễ, quả cây, côn trùng, chim nhỏ và cả một số loài động vật có vú nhỏ.


    Loài sếu cổ trắng này có chiều dài cơ thể khi trưởng thành vào khoảng 100 - 130 cm, sải cánh từ 190 - 240 cm và trọng lượng ước chừng từ 4,5 - 6 kg. Phần lớn cơ thể có màu xám với một vệt trắng ở trên đầu và lớp lông viền cánh màu đen. Sếu trưởng thành có một mảng lông mào màu đỏ. Tiếng kêu của chúng khá lớn và ồn ào, chúng thường kêu trong khi đang bay và là dấu hiệu báo trước sự xuất hiện của con sếu. Loài chim này cũng có một điệu múa khá ấn tượng với những động tác nhảy và vỗ cánh thường được thực hiện trong mùa giao phối để thu hút bạn tình.

    Sếu cổ trắng
    Sếu cổ trắng
  3. Ngỗng Ấn Độ có một cơ thể màu xám ánh sáng, màu trắng trên cổ và mặt, chân màu da cam. Ngỗng Ấn Độ có bàn chân màng và có đôi cánh rộng. Môi trường sống của ngỗng Ấn Độ là quanh hồ có độ cao. Loài ngỗng Ấn Độ này đã được báo cáo là di cư về phía nam từ Tây Tạng, Mông Cổ và Nga trước khi qua Himalaya. Ngỗng Ấn Độ có thể bay được độ cao tối đa là 8,8km.


    Ngỗng Ấn Độ có một cơ thể màu xám ánh sáng, màu trắng trên mặt và cổ, chân màu da cam. Bàn chân có màng và nó có đôi cánh rộng. Chim trưởng thành có chiều dài là 71 - 76 cm và nặng 1,87 - 3,2 kg Môi trường sống mùa hè là hồ có độ cao. Loài này đã được báo cáo là di cư về phía nam từ Tây Tạng, Kazakhstan, Mông Cổ và Nga trước khi qua Himalaya. Ngỗng đẻ 4 - 6 trứng màu trắng trong một ổ trứng, trứng cần khoảng 27 ngày để ấp.

    Ngỗng Ấn Độ
    Ngỗng Ấn Độ
  4. Thiên nga lớn có danh pháp khoa học là Cygnus cygnus là một loài thiên nga thuộc họ Vịt. Loài này sinh sản ở Iceland và các vùng gần cực bắc châu Âu và châu Á, di cư sang châu Âu và châu Á ôn đới trong mùa đông. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với loài thiên nga Bắc Mỹ thiên nga kèn.


    Thiên nga lớn có bề ngoài rất giống với thiên nga Bewick. Tuy nhiên, nó lớn hơn, chiều dài 140 - 165 cm. Khối lượng thường là trong khoảng 7,4 - 14 kg, với trung bình là 9,8 - 11,4 kg cho con trống và 8,2 - 9,2 kg cho con mái. Khối lượng kỷ lục được xác nhận là 15,5 kg cho một con đực từ Đan Mạch. Nó được xem là một trong các loài chim bay nặng nhất. Trong số đo tiêu chuẩn, dây cánh dài 56,2 - 63,5 cm, xương cổ chân dài 10,4 - 13 cm và mỏ dài 9,2 - 11,6 cm.


    Thiên nga lớn sinh sản ở vùng Iceland và các vùng gần cực bắc châu Á và châu Âu. Sau đó thiên nga lớn di cư sang các vùng châu Âu và châu Á ôn đới trong mùa đông. Loài chim này có mối quan hệ chặt chẽ với loài thiên nga Bắc Mỹ. Thiên nga lớn có thể bay độ cao tối đa là 8,2km.

    Thiên nga lớn
    Thiên nga lớn
  5. Quạ mỏ vàng hay quạ núi mỏ vàng có danh pháp khoa học Pyrrhocorax graculus là một loài chim thuộc họ Corvidae. Nó là một trong hai loài thuộc chi Pyrrhocorax. Pyrrhocorax Graculus phân bố rộng khắp thế giới, trừ phần cực nam của Nam Mỹ, cùng các chỏm băng vùng cực. Chủ yếu các loài tìm thấy ở vùng nhiệt đới phía Trung và Nam Mỹ, miền nam đại lục Á - Âu và châu Á.


    Chim này sinh sống trong ở các đới khí hậu. Chủ yếu là chim định cư ổn định, không di cư theo mùa một cách rõ nét. Tuy vậy, trong những thời kỳ khan hiếm thức ăn, việc di cư có thể diễn ra. Là loài chim có cơ thể cường tráng, các chân rất khỏe khoắn. Pyrrhocorax Graculus bay với độ cao tối đa gần 8,1km.

    Quạ mỏ vàng (Pyrrhocorax Graculus)
    Quạ mỏ vàng (Pyrrhocorax Graculus)
  6. Kền kền râu có tên khoa học Gypaetus barbatus là một loài chim săn mồi duy nhất trong chi Gypaetus, họ Accipitridae. Theo truyền thống được coi một loài kền kền Cựu thế giới, nhưng nó thực sự tạo thành một dòng nhỏ của Accipitridae cùng với kền kền Ai Cập (Neophron percnopterus), là loài còn sống tương đối gần gũi nhất với nó. Mặc dù không giống nhau, kền kền Ai Cập và kền kền râu đều có đuôi hình thoi, là bất thường giữa các loài chim săn mồi.


    Kền kền râu có kích thước rất lớn, với chiều dài trên 1,2 m và sải cánh lên đến gần 3 m. Khối lượng từ 4,5 - 8,0 kg. Nó ăn chủ yếu xác chết và thi thoảng là cả con mồi sống, sinh sản trên những vách núi cao ở phía nam Châu Âu, Kavkaz. Bắc Phi, phía nam châu Phi, tiểu lục địa Ấn Độ và Tây Tạng. Chúng đẻ một đến hai quả trứng vào giữa mùa thu và nở vào mùa xuân. Chúng là loài định cư. Mỏ của các loài chim này rất khỏe nên là loài chim ăn thịt và phần lớn là chúng tích cực săn mồi. Chúng săn mồi cơ hội, nghĩa là sẽ ăn bất kỳ con mồi nào mà chúng có thể giết được. Tuy vậy, phần lớn các loài đều có kiểu con mồi ưa thích nhất định. Kền kền râu có thể bay ở độ cao tối đa là 7,3km.


    Kền kền râu
    Kền kền râu
  7. Vịt cổ xanh hay le le có lẽ là loài vịt được biết đến nhất và dễ nhận ra nhất, sinh sống trên khắp các vùng ôn đới và cận nhiệt đới tại Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, New Zealand (hiện là loài vịt phổ biến nhất tại đây) và Úc. Ở các vùng phía bắc, vịt cổ xanh di cư vào mùa đông. Ví dụ, ở Bắc Mỹ, vào mùa đông, vịt cổ xanh di cư về Mexico.


    Đúng như tên gọi của nó, vịt cổ xanh có hình dáng giống con vịt và cổ chúng có màu xanh ánh rất đẹp. Bộ lông của loài chim này có màu trắng và màu xám. Là loài chim được biết đến nhất và dễ dàng nhận ra nhất. Chúng sinh sống trên khắp các vùng cận nhiệt đới và ôn đới. Vịt cổ xanh có thể bay độ cao tối đa là 6,8km.

    Vịt cổ xanh
    Vịt cổ xanh
  8. Limosa lapponica là một loài chim trong họ Scolopacidae. Loài chim này sinh sản trên bờ biển Bắc Cực và vùng lãnh nguyên chủ yếu trong Cựu thế giới và trú đông trên bờ biển ở các vùng ôn đới và nhiệt đới của Cựu thế giới. Chuyến di cư của loài này là chuyến bay không ngừng dài nhất trong các loài chim, và cũng là chuyến đi không dừng lại săn mồi dài nhất trong các động vật.


    Chiều dài mỏ đến đến đuôi là 37 - 41 cm, với sải cánh dài 70 - 80 cm. Chim trống trung bình nhỏ hơn chim mái nhưng có nhiều chồng chéo; chim trống cân nặng 190 - 400 g, trong khi chim mái nặng 260 - 630 g, cũng có một số thay đổi trong khu vực có kích thước lớn hơn. Chim trưởng thành có chân màu xám xanh và mỏ tối màu rất dài hơi cong lên và màu hồng ở mũi. Cổ, ngực và bụng màu đỏ gạch trong bộ lông mùa sinh sản, chuyển sàn màu trắng vào mùa đông. Mặt sau là đốm màu xám.


    Đây là loài chim sống ở vùng ngập nước hoặc ở các môi trường ven biển. Rất nhiều loài chim Bắc Cực và các vùng ôn đới đã di cư, nhưng chim nhiệt đới thường trú, hoặc chúng chỉ di chuyển để đáp ứng với lượng mưa. Chúng chủ yếu sống ở ven biển nên thức ăn của chúng là những con vật ở dưới bùn đất. Chim này có thể bay với độ cao tối đa là 6,0km.

    Limosa lapponica
    Limosa lapponica
  9. Hạc trắng là một loài chim lớn trong Chi Hạc thuộc họ Hạc. Bộ lông của nó chủ yếu là màu trắng, với màu đen trên đôi cánh của nó. Con lớn có đôi chân dài màu đỏ và dài chỉ mỏ màu đỏ, chiều dài từ chóp mỏ đến cuối đuôi trung bình 100 - 115 cm với một sải cánh dài 195 - 215 cm. Hai phân loài khác nhau đôi chút về kích thước, giống ở châu Âu (phía bắc Estonia), tây bắc châu Phi, Tây Nam Á (phía đông tới miền nam Kazakhstan), và Nam Phi. Hạc trắng là một loài di cư đường dài, mùa đông ở châu Phi nhiệt đới cận Saharan châu Phi phía nam cũng như Nam Phi hoặc trên tiểu lục địa Ấn Độ. Khi di chuyển giữa châu Âu và châu Phi, nó tránh đi qua biển Địa Trung Hải và đi đường vòng qua Levant ở phía đông eo biển Gibraltar ở phía tây, bởi vì thermals không khí mà nó phụ thuộc không hình thành trên mặt nước.


    Hạc trắng có bộ lông chủ yếu là màu trắng và một ít màu đen trên đôi cánh của nó. Thường thì những con hạc lớn có đôi chân dài màu đỏ và dài chỉ mỏ màu đỏ thôi. Hạc trắng là chim ăn một loạt các con mồi động vật, bao gồm cả cá, động vật lưỡng cư, côn trùng, động vật có vú nhỏ, bò sát và các loài chim nhỏ. Chủ yếu chúng ăn các thức ăn của từ mặt đất, trong số các thảm thực vật thấp và từ những vùng nước nông. Hạc trắng có thể bay độ cao tối đa là 4,9km.

    Hạc trắng
    Hạc trắng
  10. Thần ưng Andes hay kền kền khoang cổ là một loài chim thuộc họ kền kền Tân thế giới. Loài này phân bố ở Nam Mỹ trong dãy Andes, bao gồm các dãy núi Santa Marta. Ở phía Bắc, phạm vi của nó bắt đầu ở Venezuela và Colombia, nơi mà nó là vô cùng hiếm hoi, sau đó tiếp tục về phía nam dọc theo dãy núi Andes ở Ecuador, Peru, và Chile, thông qua Bolivia và phía tây Argentina Tierra del Fuego. Đầu thế kỷ 19, thần ưng Andes sinh sản từ miền tây Venezuela đến Tierra del Fuego, dọc theo toàn bộ chuỗi của dãy Andes, nhưng phạm vi của nó đã bị giảm đáng kể do hoạt động của con người.


    Môi trường sống của nó chủ yếu bao gồm đồng cỏ mở và núi cao các khu vực lên đến 5.000 m trên mực nước biển. Nó thích các khu vực tương đối mở, không có rừng mà cho phép nó phát hiện ra xác chết động vật từ không khí, chẳng hạn như Páramo hoặc đá, khu vực miền núi nói chung. Phạm vi phân bố vùng đất thấp ở phía đông Bolivia và tây nam Brazil, xuống đến các khu vực sa mạc vùng đất thấp ở Chile và Peru, và được tìm thấy trên toàn miền Nam rừng sối rừng phía nam ở Patagonia.


    Loài thần ưng Andes phân bố ở Nam Mỹ. Ở phía Bắc, phạm vi của nó bắt đầu từ Venezuela và Colombia, nơi vô cùng hiếm hoi, sau đó tiếp tục đến phía nam dọc theo dãy núi Andes ở Ecuador, Peru, và Chile, thông qua vùng Bolivia và phía tây Argentina Tierra del Fuego. Môi trường sống của chim này chủ yếu bao gồm đồng cỏ và núi cao. Chúng thích các khu vực tương đối mở, không có rừng mà cho phép chúng phát hiện ra xác chết động vật từ không khí. Thần ưng Andes có thể bay với độ cao tối đa là 4,5km.

    Thần ưng Andes
    Thần ưng Andes



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy