Top 6 Vị Thánh Công giáo thuộc dòng Norbertines nổi tiếng nhất
Các vị Thánh mà Toplist liệt kê sau đây, là những đệ tử đầu tiên của Thánh Norbert - người sáng lập nên dòng Norbertines nổi tiếng. Họ đã đạt được sự thánh ... xem thêm...thiện và bị thu hút bởi lối sống của thầy mình, đồng thời giúp phát huy lý tưởng và giá trị của dòng.
-
Thánh Norbert của Xanten sinh năm 1080, tại Đức. Ông là một giám mục của Magdeburg, và là người sáng lập trật tự giáo luật có tên gọi là Premonstratensian, một giáo đoàn gồm các linh mục. Đồng thời cũng là người sáng lập nên dòng Norbertines nổi tiếng - dòng tu lâu đời thứ 5 còn tồn tại trong nhà thờ Công giáo. Nó được thành lập để mang lại sự đổi mới trong hàng giáo sĩ, bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa đời sống tu viện với đời sống giáo sĩ.
Norbert thụ phong linh mục vào năm 1115. Sau khi thất bại trong việc cải cách các giáo luật tại nhà thờ đại học Xanten, ông đã từ chức, bán toàn bộ tài sản của mình và dùng số tiền thu được giúp đỡ những người nghèo. Norbert đến thăm giáo hoàng Gelasius II, ngài đã cho phép ông trở thành một nhà truyền giáo lưu động, đi thuyết giảng khắp các vùng đất mà ngày nay là miền tây của nước Đức, Bỉ, Hà Lan và miền bắc nước Pháp.
Năm 1119, giáo hoàng Calixtus II yêu cầu Norbert thành lập một học viện tôn giáo tại Premontre. Với những đệ tử nổi tiếng của mình là Thánh Hugh xứ Fosses và Thánh Evermod, ông đã thành lập cộng đồng Premonstratensians vào năm 1120 - chuyên rao giảng, mục vụ và giáo dục. Norbert đã áp dụng sự cai trị của giám mục Thánh Augustine cho trật tự mới của mình, ông mô phỏng hiến pháp theo mô hình Cistercians - một nhóm khắc khổ gồm các tu sĩ ăn chay, sống trong tu viện, thực hành sự im lặng vĩnh viễn.
Năm 1126, Norbert được chọn làm tổng giám mục của Magdeburg. Bốn năm sau, ông trở thành nhân vật quan trọng của nhà thờ khi bảo vệ giáo hoàng Innocent II trong cuộc ly giáo vào năm 1130; vì ông ủng hộ Innocent, chống lại Antipope Anacletus II. Trong những năm cuối cùng của mình, Norbert là tể tướng và cố vấn cho hoàng đế La Mã Lothair II. Ông thuyết phục cho dẫn quân vào năm 1133 tới Rome để khôi phục Innocent làm giáo hoàng.
Thánh Norbert của Xanten qua đời ở Magdeburg vào ngày 6 tháng 6 năm 1134. Ông được giáo hoàng Gregory XIII phong Thánh năm 1582. Bức tượng của ông xuất hiện phía trên hàng cột Piazza của Quảng trường Thánh Peter ở Rome ngày nay.
-
Thánh Hugh xứ Fosse sinh năm 1093, tại Bỉ. Ông là một trong những đệ tử đầu tiên của Thánh Norbert và là tu sĩ thuộc dòng Norbertines. Dường như Hugh đã mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được giáo dục tại trường đại học nhà thờ Thánh Feuillien ở quê nhà. Sau khi thụ phong linh mục, ông được bổ nhiệm làm thư ký cho Burchard-giám mục của Cambrai.
Khi đi cùng vị giám mục của mình qua Valenciennes, cả hai đã tình cờ gặp gỡ Thánh Norbert đang thuyết giảng ở đó. Norbert bất ngờ mắc một căn bệnh và họ đã đến thăm, giúp đỡ chăm sóc cho ông ấy hàng ngày. Vì lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với Norbert, sau khi ông khỏi bệnh, Hugh đã hứa sẽ đi theo để đồng hành cùng ông ấy trong công việc và cả những cuộc hành trình. Từ đó trở đi, Hugh trở thành cánh tay phải của Norbert, cũng như là một trong những đệ tử đầu tiên của vị Thánh sáng lập nên dòng Norbertines này.
Khi Norbert trở thành tổng giám mục Magdeburg, Hugh cũng được bầu làm tu viện trưởng cộng đồng Premontre của thầy mình. Với tư cách là bề trên, Hugh đặt nền móng cho đời sống lập pháp và phụng vụ của dòng. Ông tổ chức hệ thống tổng tu nghị, soạn thảo nội quy đầu tiên, tổ chức các văn phòng phụng vụ khác nhau. Hugh cũng cống hiến hết mình cho việc giáo dục cũng như đào tạo các giáo sĩ và điều hành trong những năm đầu để dòng triển nhanh chóng.
Sau khi làm việc rất chăm chỉ, Thánh Hugh xứ Fosse qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1164.
Năm 1279, Thánh tích của ông được chuyển đến bàn thờ cao của nhà thờ tu viện Premontre. Cho đến năm 2010, Thánh tích ấy cuối cùng đã tìm được một ngôi nhà cố định ở Rome, tại tổng quyền của dòng.
-
Thánh Evermode của Ratzeburg ra đời tại Bỉ vào khoảng đầu thế kỷ XII. Mặc dù có rất ít thông tin về tuổi trẻ của ông, nhưng người ta biết rằng khi Evermode khoảng 20 tuổi, ông đã tình cờ có cơ hội được gặp gỡ Thánh Norbert khi ngài đến thành phố Cambray để thuyết giảng theo lời mời của giám mục Burchard. Evermode cảm thấy ấn tượng bởi những lời của Norbert, và ngay lập tức bỏ lại mọi thứ để đi cùng ngài đến cộng đồng mới thành lập ở Premontre - nơi Evermode trở thành một trong những đệ tử đầu tiên của Norbert.
Kể từ ngày đó trở đi, cả hai đồng hành cùng nhau trong mọi cuộc hành trình và sớm trở thành người bạn thân thiết nhất. Evermode đã ở bên cạnh người thầy Norbert trong tất cả những thời điểm quan trọng của cuộc đời ông, với tư cách là người sáng lập và tổng giám mục.
Vào ngày 6 tháng 6 năm 1134, Norbert bị bệnh rồi qua đời. Trong những năm sau đó, Evermode bắt đầu giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Từ năm 1134 đến năm 1138, ông là hiệu trưởng tu viện Gottesgnaden ở Saxony; và từ năm 1138 đến năm 1154, ông là hiệu trưởng tu viện Thánh Mary ở Magdeburg. Cho đến năm 1154, Evermode được bổ nhiệm làm giám mục đầu tiên của giáo phận Ratzeburg mới thành lập.
Ông nổi tiếng hơn hết vì lòng nhiệt thành tông đồ đối với việc hoán cải các dân tộc ngoại giáo ở miền bắc, đặc biệt nhất là người Wends. Những nỗ lực của Evermode trong việc cải đạo họ đã thành công đến mức ông nhận được danh hiệu “Tông đồ của Wends”, và đã thành công trong việc Cơ Đốc giáo hóa, văn minh hóa họ - nơi mà nhiều người đã từng truyền giáo thất bại trước đây. Ông cũng được biết đến với ý thức công lý nhạy bén. Khi bá tước Henry của Ratzeburg ngược đãi một số tù nhân, Evermode đã cầu xin ông ta đối xử nhân đạo với họ. Thiên Chúa cũng đã nghe thấy lời cầu xin này và giúp làm nên một điều kỳ diệu. Khi các tù nhân được nhận vào nhà thờ để dự lễ Phục sinh. Theo thông lệ, Evermode rưới nước Thánh mới được làm phép lên dây xích của họ, nhưng lần này dây xích bỗng nhiên đứt ra, các tù nhân được giải thoát.
Thánh Evermode của Ratzeburg qua đời với tư cách là giám mục vào ngày 17 tháng 2 năm 1178. Lễ kính là ngày 17 tháng 2 hàng năm.
-
Thánh Frederick của Hallum sinh ngày 3 tháng 3 năm 1175, tại Hà Lan. Là một trong số các vị Thánh Norbertines thời kỳ đầu, Frederick cũng là người sáng lập tu viện Bethlehem dành cho các nữ giáo sĩ.
Ông đã đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, ơn gọi tu trì của ông đã được chú ý từ những năm đầu đời. Và thầy của Frederick đã dạy cho ông những hướng dẫn đầu tiên về tiếng Latinh. Ông theo học nghệ thuật tự do cùng kinh Thánh tại Munster. Frederick có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria, Thánh John và Thánh Cecilia. Khi quay về từ Munster, ông đã trở thành giáo viên, rồi thụ phong linh mục. Frederick còn được bổ nhiệm làm phụ tá cho linh mục của Hallum - người mà sau này ông kế vị. Ông mong muốn xây dựng một bệnh viện, đồng thời cũng xin phép giám mục Godfrey của Utrecht để thành lập một tu viện sau sự qua đời của mẹ mình. Vì vậy, sau đó Frederick đã đến dòng Norbertines để tìm hiểu về đời sống tu viện với tư cách là người mới. Ông lang thang khắp các thành phố cùng làng mạc với mong muốn tập hợp những người bạn đồng hành.
Năm 1163, Frederick đã xây dựng được một nhà thờ tu viện dành riêng cho Đức Maria có tên là “Mariengaard”. Lúc đầu tại đây, các linh mục và nữ tu sống trong cùng một cơ sở; nhưng chẳng bao lâu sau thì các chị em tu sĩ đều được chuyển đến Bethlehem - một tu viện mới. Tiếp đó, Frederick đến Steinfeld để tham gia thành lập dòng Norbertines. Ông còn mang cả luật giáo sĩ Canons Regular đến Hà Lan. Dù vậy, Frederick vẫn đồng thời là tu viện trưởng, linh mục của Hallum và là hiệu trưởng Bethlehem. Các chủng viện đào tạo linh mục được gắn liền với tu viện của ông đã trở nên nổi tiếng trong một thời gian ngắn.
Bỗng nhiên một ngày, Frederick bị ốm khi đang ở tu viện Norbertines và phải trở về Hallum. Trong nhà thờ mà ông cử hành thánh lễ đầu tiên, cũng là nơi ông đã cử hành thánh lễ cuối cùng. Frederick trở về tu viện, sau đó qua đời vào ngày 3 tháng 3 năm 1175. Nhiều phép lạ xảy ra tại ngôi mộ của ông đến nỗi nhà thờ Mariengaard đã trở thành địa điểm hành hương được rất nhiều người viếng thăm.
-
Thánh Godfrey của Cappenberg sinh ra trong sự giàu có và uy tín của bá tước Cappenberg vào ngày 14 tháng 1 năm 1097, tại lâu đài Cappenberg-Đức. Khi chỉ mới trưởng thành, ông đã đóng một vai trò tích cực trong việc hỗ trợ chính nghĩa của giáo hoàng La Mã chống lại hoàng đế Henry IV. Năm 1121, Godfrey gặp Thánh Norbert tại Cologne, ông cảm thấy ấn tượng bởi lối sống cũng như lời rao giảng của ngài, đến mức ngay lập tức chấp nhận từ bỏ hết tất cả tài sản của mình để gia nhập dòng Norbertines.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1122, Godfrey đã bàn giao lâu đài Cappenberg cho Thánh Norbert, do đó thiết lập nền tảng đầu tiên của dòng tu này ở Đức. Việc ông tặng thêm tài sản của mình tại Varlar và Ilbenstadt đã gây ra sự náo động trong giới quý tộc địa phương, nhiều người còn xem đó là mối đe dọa đối với tầng lớp quý tộc lâu đời của họ. Dưới sự lãnh đạo bởi kẻ thù địch của Godfrey ở Arnsberg, một cuộc tấn công quân sự bất thành đã được thực hiện nhắm vào tu viện mới tại Cappenberg.
Trải qua tất cả những thử thách này, ông vẫn kiên định với mong muốn trở thành một tu sĩ của dòng Norbertines. Godfrey đặc biệt yêu thích việc chăm sóc người nghèo, người bệnh trong bệnh viện trực thuộc tu viện. Dù Thánh Norbert rất cần có ông đồng hành bên cạnh tại Magdeburg, nhưng vì Godfrey cảm thấy lạc lõng trong đô thị ồn ào phía bắc, nên đã được phép để quay trở về Cappenberg. Khi đang trên đường thì ông ngã bệnh ở Ilbenstadt, và qua đời ngày 13 tháng 1 năm 1127, tại tu viện Ilbenstadt.
Thánh Godfrey của Cappenberg luôn được mô tả cùng với chiếc vương miện quý tộc mà ông đã từ chối vì vương quốc của Chúa Kito. Thánh tích của ông hiện được cất giữ trong nhà thờ ở Ilbenstadt và Cappenberg, Đức.
-
Thánh Pierre-Adrien Toulorge sinh ngày 4 tháng 5 năm 1757, tại Pháp. Ông là một linh mục Công giáo và là thành viên tuyên xưng của cộng đồng Premonstratensians thuộc dòng Norbertines.
Cha xứ phụ tá nhận thấy nguyện vọng mong muốn bước con đường tu trì của Toulorge, nên đã nhận ông dưới sự quản lý của mình và hướng dẫn ông bằng tiếng Latinh. Sau đó Toulorge được gửi đến một ngôi trường để học tập. Ông đã trải qua các nghiên cứu triết học vào năm 1777, nghiên cứu thần học từ năm 1778 đến năm 1782. Toulorge được thụ phong linh mục vào tháng 6 năm 1782, và được bổ nhiệm làm phụ tá giám tuyển ở Doville đầu năm 1783. Ông thường đến tu viện Norbertines ở Blanchelande, để xin được tham gia vào cộng đồng Premonstratensians.
Năm 1790, khi những quan chức trong cách mạng Pháp bắt đầu đàn áp các linh mục, Toulorge đã rời đi vào ngày 11 tháng 10 để đến sống ở một trang trại lân cận tại La Cour. Cho đến ngày 12 tháng 9 năm 1791, ông cùng với hơn 500 linh mục từ giáo phận Coutances đi đến đảo Jersey - nơi ông sống một cuộc sống lưu vong bấp bênh, không một xu dính túi trong 5 tuần. Khi Toulorge quay trở lại đất liền, ông sống ẩn náu từ nơi này sang nơi khác, trong sự ngụy trang và bí mật cử hành các bí tích cùng Thánh lễ tại nhà một cách riêng tư.
Vào tối ngày 2 tháng 9 năm 1793, có một người phụ nữ nhìn thấy Toulorge bước ra từ bụi cây nên đã mời ông vào nhà mình. Ông tiết lộ bản thân với bà ấy, và sau đó người phụ nữ này cũng cho biết mình là nữ tu dòng Benedictines. Hôm sau, bà dẫn Toulorge cải trang để đi đến nhà của người bạn Marotte Fosse, vì nghĩ rằng ông sẽ an toàn hơn nhiều khi ở đó. Nhưng những người công nhân dọc đường trông thấy họ khả nghi, nên đã đi theo cả hai đến tận nhà Marotte và đi báo lại với chính quyền. Khi Toulorge đang nằm nghỉ trên gác mái thì có 3 người lính canh đến gõ cửa, ông trốn dưới những bó lanh khi ngôi nhà bị lục soát. Lúc những người lính đang định rời đi thì một người trong số họ quay lại thấy Toulorge đang bước ra khỏi nơi ẩn náu. Ông bị bắt ngay lập tức, và tất cả những gì mà ông mang theo cũng đều bị tịch thu.
Ngày 4 tháng 9 năm 1793, Toulorge bị đưa đến gặp giám đốc quận Carentan để xét xử. Khi bản án tử hình được tuyên bố, ông yêu cầu được cắt tóc, cạo râu để hành quyết. Hài cốt của Thánh Pierre-Adrien Toulorge sau đó được chôn cất tại một ngôi mộ tập thể và được cải táng vào năm 1804.