Top 16 Nơi linh thiêng nhất thế giới

Jane TrucVy 40 0 Báo lỗi

Con người ta từ lâu đã xây dựng nên những nền văn hóa theo cách riêng, để diễn giải thế giới tuyệt đẹp này của chúng ta. Mỗi một nơi là một sự bày tỏ lòng kính ... xem thêm...

  1. Kailash là một ngọn núi ở tỉnh Ngari, khu tự trị Tây Tạng của Trung Quốc. Với độ cao 6.638m, ở phía tây của cao nguyên, nó cách ngã ba biên giới Trung Quốc, Ấn Độ và Nepal chưa đến 100km về phía bắc. Đối với một số người leo núi là một thử thách thú vị về địa hình nguy hiểm, thì đối với những người khác, đây là địa điểm linh thiêng được người theo Ấn Độ giáo, Bon, Jain và Phật giáo viếng thăm. Hàng năm có hàng ngàn người hành hương lên đỉnh núi phủ đầy tuyết này để tìm kiếm sự ban phước của thượng đế.


    Tất nhiên, những thứ như điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sự mệt mỏi, độ cao choáng váng là một phần không thể thiếu khi chinh phục núi Kailash. Trong khi những người theo đạo Hindu tin rằng, đây là nơi ở trên trời của thần Shiva, thì những người theo đạo Jain lại gọi nó là Meru Parvat, đồng thời coi đây là nơi mà vị thần đầu tiên của họ đã đạt được sự giải thoát. Còn với Phật giáo, núi Kailash chính là quê hương của Đức Phật Demchok. Nguồn của bốn con sông lớn tại Châu Á gồm: Indus, Sutlej, Brahmaputra và Karnali là một nhánh của sông Hằng đều nằm ở ngọn núi này. Nó cũng gần với hồ Mansarovar - một hồ nước linh thiêng nổi tiếng.


    Hầu hết những người hành hương đến đây mất tầm ba ngày để hoàn thành. Nhưng một số người đến từ Tây Tạng hoặc Nepal ở các vùng có độ cao lớn, chỉ hoàn thành việc leo núi này trong một ngày. Họ cúi đầu, quỳ gối suốt buổi cầu nguyện, sau đó bò về phía trước bằng tay và đầu gối. Những người hành hương Phật giáo Tây Tạng và Himalaya thì thường hát khi băng qua đèo Dolma La. Các bài hát là sự tuyên bố về tình huynh đệ vượt thời gian của tất cả những người hành hương trong suốt quá trình chinh phục đỉnh núi. Tuy núi Kailash nằm ở một khu vực đặc biệt xa xôi cũng như khắc nghiệt của dãy Himalaya, nhưng một số tiện nghi hiện đại, chẳng hạn như: ghế dài, nơi nghỉ ngơi cùng quầy giải khát vẫn có đầy đủ để hỗ trợ những người hành hương trong hành trình thể hiện lòng sùng kính của họ.

    Núi Kailash - Tây Tạng
    Núi Kailash - Tây Tạng
    Núi Kailash - Tây Tạng
    Núi Kailash - Tây Tạng

  2. Giáo đường Do Thái Tây Ban Nha là giáo đường Do Thái mới nhất trong số 6 giáo đường lịch sử ở Praha, nằm tại khu vực được gọi là Thị Trấn Do Thái. Tuy nhiên, nó lại hình thành trên vị trí của giáo đường Do Thái lâu đời nhất trước đây. Được xây dựng vào nửa sau của thế kỷ XIX, gồm một công viên nhỏ với bức tượng hiện đại của nhà văn nổi tiếng Praha Franz Kafka nằm giữa nó và nhà thờ Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, giáo đường này còn có các bức tranh tuyệt đẹp, kính màu sặc sỡ, những chạm khắc hình học, tất cả đều được dát vàng rực rỡ. Cửa, lan can, phòng trưng bày và mái vòm, trang trí bằng các họa tiết phương Đông cách điệu, ấn tượng. Tổng thể được nhấn mạnh bởi các bức tranh Arabesque bằng vữa, nội thất phức tạp chính là đặc điểm nổi bật ở đây.


    Năm 1837, giáo đường Do Thái được cải tạo cho mục đích phục vụ các dịch vụ cải cách. Do đó, vào năm 1867 nó được thay thế bằng giáo đường Do Thái Tây Ban Nha mới. Cái tên này có lẽ đề cập đến phong cách mà nó được xây dựng - phong cách Moorish Revival, lấy cảm hứng từ nghệ thuật của thời kỳ Ả Rập trong lịch sử Tây Ban Nha. Kiến trúc cùng nội thất hoành tráng thiết kế bởi Vojtech Ignac Ullmann và Josef Niklas. Năm 1935, một tòa chức năng do Karel Pecánek thiết kế được thêm vào tiếp theo. Cho đến thế chiến thứ hai, người ta sử dụng nó để phục vụ cộng đồng Do Thái như một bệnh viện. Sau đó, nó đã bị người Đức lấy đi khỏi người Do Thái để sử dụng làm kho lưu trữ các tài sản bị tịch thu của những giáo đường Do Thái khác.


    Mười năm sau chiến tranh, nó được bàn giao cho bảo tàng Do Thái. Vào năm 1958 - 1959, nó đã được khôi phục từ bên trong, một cuộc triển lãm hàng dệt tại đây đã mở ra. Những năm 1970 - 1982, tòa nhà bị bỏ hoang cũng như bị đóng cửa, việc trùng tu chỉ bắt đầu sau cuộc cách mạng. Giáo đường được mở cửa trở lại bằng một buổi lễ năm 1998, hoàn toàn khôi phục lại vẻ đẹp trước đây.

    Giáo đường Do Thái Tây Ban Nha ở Praha - Cộng hòa Séc
    Giáo đường Do Thái Tây Ban Nha ở Praha - Cộng hòa Séc
    Giáo đường Do Thái Tây Ban Nha ở Praha - Cộng hòa Séc
    Giáo đường Do Thái Tây Ban Nha ở Praha - Cộng hòa Séc
  3. Chùa Shwedagon tự hào là một trong những ngôi chùa Phật giáo lâu đời và nổi tiếng nhất trên thế giới. Với điểm thu hút cực kỳ lớn tại Yangon - thủ đô của Myanmar, nó đã tồn tại khoảng 2.600 năm. Nằm trên ngọn đồi Singuttara, cao 99m, bảo tháp mạ vàng ở đỉnh được trang trí bằng 7.000 viên kim cương cùng đá quý như ngọc bích, hồng ngọc, topaz. Ngôi chùa linh thiêng này được cho là chứa xá lợi của bốn vị Phật tiền kiếp. Nó lưu giữ 8 sợi tóc của Đức Phật Gautama và di vật của 3 vị Phật khác trước đây.


    Chùa Shwedagon được cho rằng đã được hình thành khi Đức Phật vẫn còn tại thế, điều này khiến nó trở thành bảo tháp Phật giáo lâu đời nhất. Chuyện kể về hai thương gia tên là Tapussa và Bhallika, khi đang đi ngang qua Bodh Gaya thì họ gặp Đức Phật. Đức Phật, lúc đó đang tận hưởng niềm hạnh phúc của quả vị Ngài mới đạt được khi ngồi dưới gốc cây Rajayatana, đã nhận sự cúng dường bánh gạo và mật ong của họ. Để đáp lại, Ngài dạy họ một số giáo pháp, thế là hai thương gia trở thành những đệ tử tại gia đầu tiên quy y của Đức Phật. Ngài cũng tặng 8 sợi tóc của mình cho họ, đồng thời hướng dẫn cách xây dựng một bảo tháp để thờ xá lợi những sợi tóc này. Hai thương gia đã tặng lại 8 sợi tóc cho vua Okkalapa của Dagon, người đã cất giữ chúng cùng với một số xá lợi của ba vị Phật tiền nhiệm là Kakusandha, Koṇagamana và Kassapa trong một bảo tháp trên đồi Singuttara ở Myanmar ngày nay.


    Một loạt các trận động đất trong những thế kỷ tiếp theo đã gây ra thiệt hại nặng nề. Đáng kể nhất là trận động đất năm 1768 làm sập đỉnh bảo tháp, nhưng vua Hsinbyushin đã nâng nó lên độ cao 99m. Chân đế bảo tháp được làm bằng gạch phủ các tấm vàng, gắn bằng đinh tán truyền thống. Người dân trên khắp đất nước, cũng như các vị vua kế vị, bắt đầu từ Nữ hoàng Shin Saw Pu, đã quyên góp vàng cho ngôi chùa để duy trì nó. Phía trên là sân thượng mà chỉ các nhà sư mới có thể lên. Nơi đây có bốn lối vào, mỗi lối dẫn lên một loạt các bậc thang để lên Đồi Singuttara. Lối vào phía đông và phía nam có những người bán sách, bùa may mắn, hình ảnh Đức Phật, nến, lá vàng, nhang, dây truyền, hoa,…

    Hiện nay, lễ hội chùa Shwedagon là lễ hội chùa lớn nhất tại Myanmar, nó bắt đầu vào ngày trăng non của tháng Tabaung theo lịch truyền thống của người Miến Điện, tiếp tục cho đến ngày trăng tròn. Ngôi chùa cũng nằm trong danh sách di sản thành phố Yangon.

    Chùa Shwedagon - Myanmar
    Chùa Shwedagon - Myanmar
    Chùa Shwedagon - Myanmar
    Chùa Shwedagon - Myanmar
  4. Sedona là một cộng đồng nhỏ nằm ở Bắc Arizona. Với khu vực tàu điện ngầm Phoenix rộng lớn, nhộn nhịp ở phía Nam, cũng như thị trấn đại học sôi động Flagstaff ở phía Bắc; nó lại đứng một mình như một điểm đến độc đáo và đặc biệt. Hơn nữa, thị trấn Sedona được bao quanh bởi những cột đá sa thạch oxit sắt màu đỏ thẫm. Trông chúng đứng rất vững chắc trên đường chân trời, và đá đỏ Sedona chứa đầy các lớp tinh thể thạch anh rực rỡ. Những tinh thể này đã được cho là khuếch đại của một lực năng lượng phổ quát. Nó chính là trung tâm tâm linh mà mọi người từ khắp nơi đều muốn đến để trải nghiệm.


    Các dòng xoáy Sedona được cho là năng lượng xoáy có lợi cho việc chữa bệnh, thiền định cũng như khám phá bản thân. Đây là nơi mà trái đất dường như đặc biệt toả ra nhiều năng lượng. Người ta luôn cảm thấy như cơ thể được sạc đầy pin, nâng cao tinh thần sau khi ghé thăm nơi này. Mặc dù ở mọi nơi khắp Sedona được coi là một dòng xoáy, nhưng vẫn luôn có những vị trí cụ thể để năng lượng bùng phát mạnh mẽ nhất. Khối đá đỏ tuyệt đẹp được biết với khả năng chữa bệnh thần bí thu hút một số người đã đi bộ qua khu vực này và tham gia thiền định dưới ánh hào quang lan tỏa. Các di tích cũng như tài liệu lưu trữ lịch sử xác nhận Sedona là nơi linh thiêng đối với một số bộ lạc người Mỹ bản địa, vì họ coi đây là nơi có nguồn gốc tâm linh. Cùng với những cơn lốc, là sự xuất hiện của hàng loạt nhà thần bí thời đại mới; như người bói bài tarot, những người mở cửa hàng bán quả cầu pha lê, vòng bắt giấc mơ, bên cạnh đó còn là tượng Phật và các vị thần Hindu dọc theo những con đường chính.


    Các nhà khoa học vẫn chưa tìm thấy ví dụ về hiện tượng xoáy vật lý ở Sedona. Tuy nhiên, hầu hết các tín đồ tại đây cho rằng nó là siêu hình. Họ cho biết bản thân cảm thấy chúng bên trong, đồng thời cũng không thể được giải thích bằng khoa học cụ thể. Đặt mình vào một trong những dòng xoáy này được cho là sự thúc đẩy tâm trí cùng cơ thể trẻ hóa, hài hòa để chữa lành, giống như một chất tẩy rửa tâm linh.

    Dòng xoáy Sedona - Arizona
    Dòng xoáy Sedona - Arizona
    Dòng xoáy Sedona - Arizona
    Dòng xoáy Sedona - Arizona
  5. Núi Sinai, còn được gọi là núi Horeb, là một ngọn núi trên bán đảo Sinai của Ai Cập. Với độ cao vừa phải 2.285m, được bao quanh tứ phía bởi những ngọn núi cao hơn nó, nằm gần thành phố Saint Catherine. Đây là địa điểm trong kinh thánh liên quan đến sự kiện tiên tri Moses đã nhận Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời được viết trên 2 phiến đá. Thế nên, nó có tầm quan trọng cũng như ý nghĩa về mặt tôn giáo đối với những người theo Do Thái giáo, Hồi giáo và Cơ đốc giáo. Mỗi năm, hàng ngàn người hành hương bắt đầu với chuyến đi đến nơi mà Moses đã đứng.


    Có hai con đường chính để lên đỉnh. Đoạn đường dài và nông là El Bashait, sẽ mất tầm 2.5 giờ đi bộ, hoặc có thể sử dụng lạc đà. Còn đoạn đường dốc nhưng trực tiếp hơn là Siket Sayidna Musa, phải đi lên 3.750 bậc thang trong khe núi phía sau tu viện. Đá núi Sinai được hình thành trong giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa, nó bao gồm đá Granit có thành phần từ Syegranit đến đá Granit Fenspat kiềm và cả đá núi lửa. Chúng được thể hiện bằng các dòng chảy cùng sự phun trào dưới núi lửa. Nói chung, những tảng đá này đều được hình thành từ những độ sâu khác nhau. Ngay phía bắc của núi Sinai là tu viện Thánh Catherine thế kỷ thứ VI.


    Đỉnh núi có một nhà thờ Hồi giáo vẫn được những người theo đạo sử dụng, và một nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp được xây dựng vào năm 1934 trên tàn tích của một nhà thờ thế kỷ XVI, không mở cửa cho công chúng. Nhà nguyện bao quanh núi được xem là nguồn tạo ra các phiến đá trong kinh thánh.

    Núi Sinai - Ai Cập
    Núi Sinai - Ai Cập
    Núi Sinai - Ai Cập
    Núi Sinai - Ai Cập
  6. Nhiều người biết đến Krabi-Thái Lan với bãi biển xinh đẹp cùng những quán bar sôi động, nhưng chắc hẳn sẽ có ít ai biết rằng nơi đây còn có một địa điểm linh thiêng được gọi là Đền Hang Cọp. Nằm giữa một khu rừng tươi xanh, ngôi đền này do Trụ trì Luang Por Chamnean Srilasatheto thành lập vào những năm 1970, là nơi thiền định phổ biến cho các nữ tu và nhà sư. Nó được biết đến với những dấu chân hổ trong hang động, cùng các bức tượng Phật cao, với 1260 bậc thang dẫn lên đỉnh.


    Đền Hang Cọp là một trung tâm thiền định của Phật giáo Thái Lan. Ngoài ra, nó còn có những địa điểm ý nghĩa khảo cổ. Ví dụ về những điểm tham quan lịch sử này là các công cụ bằng đá, mảnh gốm cùng dấu chân Phật đúc. Trên đỉnh núi là tượng Phật to bằng vàng có thể nhìn thấy được từ các tòa nhà, đền thờ khác, cũng như phần lớn tại thị trấn Krabi.


    Tương truyền rằng, khi một nhà sư tên là Jumnean Seelasettho đến thiền định tại đây; trong thời gian ấy, ông đã chứng kiến những con hổ đi lang thang quanh hang động. Đó cũng chính là lý do vì sao ngôi đền lại có tên Wat Tham Suea (Đền Hang Cọp). Truyền thuyết khác lại nói rằng một con hổ khổng lồ thực sự đã từng sống và lang thang trong hang động.


    Tên của ngôi đền cũng xuất phát từ việc người ta phát hiện ra dấu chân hổ trên vách hang, đồng thời phần phình ra của hang trông thật sự giống như móng vuốt của hổ. Môi trường xung quanh Đền Hàng Cọp bao gồm rừng mưa nhiệt đới cùng nhiều cây cổ thụ ở thung lũng Kiriwong. Các hang động nên tham quan là Tum Khon Than, Tum Lod, Tum Chang Kaeo và Tum Luk. Nhiều cổ vật đã được tìm thấy xung quanh các hang động cũng như khuôn viên đền thờ. Núi bao phủ hầu hết các vùng đất xung quanh khu vực Hang Cọp, cùng với nhiều hang động nhỏ khác mà chỉ những người phận sự mới có thể tiếp cận. Ở nhiều nơi khác nhau của ngôi đền, ta có thể nhìn thấy những bộ xương người và những chiếc đầu lâu được trang trí.

    Đền Hang Cọp - Krabi, Thái Lan
    Đền Hang Cọp - Krabi, Thái Lan
    Đền Hang Cọp - Krabi, Thái Lan
    Đền Hang Cọp - Krabi, Thái Lan
  7. Động Batu là quần thể hang động đền thờ Hindu nổi tiếng nhất. Nó còn được gọi là Động Thứ 10 hoặc Ngọn Đồi Cho Murugan, vì có 6 ngôi đền linh thiêng quan trọng ở Ấn Độ cùng 4 ngôi đền khác ở Malaysia. Đây cũng là tâm điểm lễ hội Thaipusam của người Tamil. Động Batu nằm ngay phía bắc Kuala Lumpur, được vinh danh là một trong những địa điểm đẹp như tranh vẽ tại châu Á. Khu phức hợp nhộn nhịp với các hoạt động trong lễ hội được tổ chức vào tháng thứ 10 theo lịch của người Hindu. Địa điểm này về cơ bản bao gồm một ngọn đồi đá vôi, một số hang động và đền thờ. Điều thu hút chính ở đây là bức tượng khổng lồ của Chúa Murugan. Người ta cần phải leo lên 272 bậc thang để lên đến đỉnh ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh. Có rất nhiều khỉ tại khu vực hang động, các hang được thành lập vào năm 1892.


    Đá vôi hình thành Động Batu được cho là khoảng 400 triệu năm tuổi. Một số lối vào trong hang đã được sử dụng làm nơi trú ẩn của người Temuan bản địa. Ngay từ năm 1860, những người định cư Trung Quốc bắt đầu đào phân chim để bón cho các luống rau của họ. Tuy nhiên, chúng chỉ trở nên nổi tiếng sau khi những ngọn đồi được ghi lại bởi chính quyền thuộc địa, cũng như nhà tự nhiên học người Mỹ, William Hornaday vào năm 1878. Hang động này do Thamboosamy Pillai - một thương nhân người Tamil người Ấn Độ quảng bá là nơi thờ cúng. Ông được truyền cảm hứng từ lối vào hình chữ nhật của hang chính, nên đã cống hiến một ngôi đền cho Chúa Murugan ở đây. Năm 1890, Pillai tiếp tục thành lập Đền Sri Mahamariamman và đặt tượng của Sri Murugan Swami tại vị trí mà ngày nay được gọi là Hang Đền. Kể từ năm 1892, lễ hội Thaipusam trong tháng Tamil (rơi vào cuối tháng giêng/ đầu tháng hai) đã được tổ chức tại đây.


    Ngoài ra, Động Batu còn là trung tâm phát triển bộ môn leo núi đá ở Malaysia trong 10 năm qua. Nó có hơn 160 tuyến đường, các tuyến nằm rải rác xung quanh một bên của hang động, được tạo thành từ những ngọn đồi đá vôi cao tới 150m. Tuy nhiên, ta có thể dễ dàng tiếp cận các tuyến đường leo núi này vì hầu hết những vách đá đều bắt đầu từ mặt đất. Nó ở phía Đông Bắc của quần thể hang động, trong khi cầu thang cùng lối vào đền hướng về phía Nam. Khu vực Đông Bắc này được gọi là hang động Damai.

    Động Batu - Malaysia
    Động Batu - Malaysia
    Động Batu - Malaysia
    Động Batu - Malaysia
  8. Đền Hoa Sen ở New Delhi-Ấn Độ, là một nơi thờ cúng của những người theo đạo Baháʼí, được khánh thành vào tháng 12 năm 1986. Nổi tiếng với hình dạng giống hoa sen, ngôi đền đã trở thành một điểm thu hút nổi bật trong thành phố. Nơi đây luôn mở cửa chào đón tất cả mọi người, bất kể tôn giáo, tín ngưỡng nào.


    Nằm giữa những khu vườn tươi tốt được chăm sóc cẩn thận. Ngoài ra, đây còn là một nơi lý tưởng để thiền định. Cấu trúc bao gồm 27 cánh hoa ốp từ đá cẩm thạch, đứng tự do xếp thành cụm 3 để tạo thành 9 mặt, tượng trưng cho 9 tôn giáo chính trên thế giới. Cửa vào sảnh trung tâm có chiều cao hơn 34m và sức chứa 1.300 người. Ngôi đền đã giành về nhiều giải thưởng kiến trúc, cũng như được đăng trên nhiều mặt báo lẫn tạp chí.


    Đền Hoa Sen do một người Iran tên Fariborz Sahba thành lập. Sau khi sống vài năm ở Canada, thì vào năm 1976, ông đã thiết kế ngôi đền và giám sát việc xây dựng nó. Kiến trúc kết cấu do một công ty Anh Quốc đảm nhận trong suốt 18 tháng, còn việc xây dựng do tập đoàn ECC thực hiện; với chi phí 10,56 triệu USD. Phần lớn số tiền mua mảnh đất này được tặng bởi Ardishír Rustampúr, người Pakistan. Vị thương nhân này có di chúc quy định rằng toàn bộ số tiền tiết kiệm cả đời của mình sẽ dùng cho việc xây dựng này. Bên cạnh đó, một phần ngân sách đã được tiết kiệm và sử dụng để xây lên một nhà kính, nhằm nghiên cứu các loại cây, hoa bản địa thích hợp tại địa điểm. Viên đá nền móng của Đền Hoa Sen được đặt ngày 19 tháng 10 năm 1977, ngôi đền được cung hiến vào ngày 24 tháng 12 năm 1986. Đối với lễ cung hiến, đã có sự quy tụ của 8.000 người theo đạo Baháʼí từ 107 quốc gia; trong đó có khoảng 4.000 người đến từ 22 tỉnh tại Ấn Độ . Ngôi đền bắt đầu mở cửa cho công chúng vào ngày 1 tháng 1 năm 1987, đã có hơn 10.000 người đã đến viếng thăm ngày hôm đó.

    Đền Hoa Sen - Ấn Độ
    Đền Hoa Sen - Ấn Độ
    Đền Hoa Sen - Ấn Độ
    Đền Hoa Sen - Ấn Độ
  9. Cái tên Hagia Sophia có nghĩa là “Trí tuệ Thánh”. Đây là công trình tôn giáo ở phía đông Bosporus của Istanbul-Thổ Nhĩ Kỳ. Ban đầu nó là một nhà thờ Chính thống Đông phương, rồi trở thành nhà thờ Hồi giáo sau sự sụp đổ của Đế chế Byzantine và bảo tàng như hiện nay. Các bức tường, sàn nhà đều có từ thời Hậu Cổ đại; cùng các đồ trang trí bao gồm tranh khảm và bích họa, hầu hết có từ thời Trung cổ. Nơi đây tự hào với lối kiến trúc tuyệt đẹp, được các du khách khắp nơi đều muốn đến khám phá. Là một trong những nơi thờ cúng lâu đời nhất, cũng như có kiến trúc đẹp nhất thế giới, Hagia Sophia khoác lên mình cảnh tượng đáng để chiêm ngưỡng, lưu giữ. Đặc biệt được biết đến với mái vòm khổng lồ, chính là một trong những ví dụ điển hình nhất về kiến trúc đặc trưng của nó, đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người.


    Được xây dựng từ năm 532-537 theo lệnh của Byzantine Justinian đại đế, với tư cách là nhà thờ lớn của Constantinople, thủ đô đế chế Đông La Mã. Các kiến trúc sư đóng góp là Anthemius của Tralles và Isidore của Miletus. Mái vòm lớn từng bị đổ cũng như được xây dựng lại nhiều lần. Một trận động đất vào năm 994 đã làm hư hại nhà thờ, sau đó nó được xây dựng lại bởi Kiến trúc sư Trdat. Cho đến năm 1453, ngoại trừ thời đế chế Latinh, khi Hagia Sophia trở thành nhà thờ Công giáo La Mã; thì sau sự sụp đổ của Constantinople, Ottoman Sultan Mehmed the Conqueror đã biến nó thành một nhà thờ Hồi giáo.


    Hagia Sophia trở thành bảo tàng vào năm 1935, khi quyết định của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa thế tục dưới thời Kemal Ataturk năm 1934. Tháng 7 năm 2020, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa Hồi giáo dưới thời Tayyip Erdogan đã ra lệnh cho nó trở lại với tư cách là nhà thờ Hồi giáo như trước đây, sau khi tòa án tối cao hủy bỏ một hiệp ước năm 1934. Nhưng do sắc lệnh của tổng thống nên nó vẫn được giữ là bảo tàng.

    Hagia Sophia - Thổ Nhĩ Kỳ
    Hagia Sophia - Thổ Nhĩ Kỳ
    Hagia Sophia - Thổ Nhĩ Kỳ
    Hagia Sophia - Thổ Nhĩ Kỳ
  10. Borodubur là một ngôi đền Phật giáo ở Indonesia, và cũng là ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới. Bao gồm 9 nền xếp chồng lên nhau, 6 hình vuông cùng 3 hình tròn, trên đỉnh là mái vòm trung tâm bao quanh bởi 72 bức tượng Phật, mỗi bức tượng ngồi bên trong một bảo tháp đục lỗ. Ngoài ra, nó còn được trang trí với 2.672 tấm phù điêu. Thành lập từ thế kỷ thứ IX nằm trong các khu rừng ở trung tâm Java - thung lũng Kedu. Đền Borobudur là một trong những điểm tham quan được ghé thăm nhiều nhất tại Indonesia. Công trình kiến trúc 7 tầng này có tầm nhìn lý tưởng để ngắm hoàng hôn và những ngọn núi lửa đang hoạt động; tất cả tạo nên một khung cảnh tuyệt vời.


    Được xây dựng vào thời trị vì của triều đại Sailendra, ngôi đền thiết kế theo kiến trúc Phật giáo Java, pha trộn giữa truyền thống thờ cúng tổ tiên của người bản địa Indonesia. Nó thể hiện hình ảnh nghệ thuật Gupta, đồng thời phản ánh ảnh hưởng của Ấn Độ đối với khu vực. Tuy nhiên, Borodubur vẫn mang đủ những cảnh sắc cùng yếu tố bản địa được kết hợp, để làm cho nó trở nên độc đáo đối với Indonesia. Di tích là điện thờ Đức Phật, cũng là nơi hành hương của Phật giáo. Hành trình của những người hành hương bắt đầu từ chân tượng đài rồi đi theo một con đường vòng quanh tượng. Họ sẽ đi qua một cầu thang cùng hành lang rộng lớn với 1.460 tấm phù điêu tường thuật trên tường cùng lan can.


    đền Borobudur được xây dựng từ thế kỷ thứ IX nhưng lại bị bỏ hoang sau sự suy tàn của các vương quốc Hindu ở Java vào thế kỷ thứ XIV, việc này dẫn đến người Java cải sang đạo Hồi. Kiến thức về sự tồn tại của nó đã được khơi dậy vào năm 1814 bởi Ngài Thomas Stamford Raffles, khi đó ông là người cai trị Java của Anh, được người Indonesia bản địa thông báo về vị trí của nó. Kể từ đó, nó được bảo tồn qua nhiều lần trùng tu. Dự án trùng tu lớn nhất thực hiện từ năm 1975 đến năm 1982 bởi chính phủ Indonesia và UNESCO, sau đó đền Borobudur trở thành Di sản Thế giới. Đồng hạng với Bagan ở Myanmar và Angkor Wat ở Campuchia - là một trong những địa điểm khảo cổ vĩ đại của Đông Nam Á.

    Đền Borobudur - Indonesia
    Đền Borobudur - Indonesia
    Đền Borobudur - Indonesia
    Đền Borobudur - Indonesia
  11. Giếng Thiêng Cenote, hay còn được gọi là Giếng Hy Sinh, là một hố sụt chứa đầy nước trong đá vôi nổi tiếng tại địa điểm khảo cổ thời tiền Columbus ở Chichen Itza, phía bắc Bán đảo Yucatan. Với đường kính 60m, bao quanh bởi những vách đá dựng đứng đổ xuống mực nước ngầm khoảng 27m bên dưới. Đây từng là nơi thờ cúng của người Maya cổ đại. Theo các nguồn tin sau cuộc chinh phục của Tây Ban Nha, thì người Maya trước đây đã gửi những vật có giá trị cùng xác người vào đó như một hình thức hiến tế cho thần mưa Chaac. Họ thường cúng dường những thứ như vàng, đồ gốm, ngọc bích, trầm hương,... vì họ tin rằng Giếng Thiêng Cenote đã được chính Chúa của họ viếng thăm.


    Edward Herbert Thompson đã nạo vét nơi này từ năm 1904 đến năm 1910 để thu hồi các đồ vật. Bắt đầu từ năm 1950, một số dự án do Mexico điều khiển được tiến hành. Những đồ vật bị loại bỏ khác từ đáy giếng bao gồm đá lửa, vỏ chai, vỏ sò, cao su, vải, cũng như bộ xương người. Ngoài ra, còn rất nhiều vật bằng gỗ đã được tìm thấy là: vũ khí, vương trượng, thần tượng, công cụ, đồ trang sức. Tuy nhiên, ngọc bích chính là thứ có số lượng lớn nhất của ở đây, tiếp theo là hàng dệt may.


    Sự hiện diện của chúng trong giếng cung cấp bằng chứng về tầm quan trọng của Chichen Itza với tư cách là một trung tâm thành phố văn hóa. Không có nguyên liệu thô nào trong số này có nguồn gốc từ Yucatan, điều đó cho thấy rằng chúng là những đồ vật có giá trị được mang đến từ những nơi khác tại Trung Mỹ và sau đó được hiến tế như một hành động thờ cúng. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rằng nhiều đồ vật bị cố ý làm hư hại trước khi bị ném xuống hố, họ suy đoán việc này tương tự như sự "giết" đồ vật để làm vật hiến tế.

    Giếng Thiêng Cenote - Mexico
    Giếng Thiêng Cenote - Mexico
    Giếng Thiêng Cenote - Mexico
    Giếng Thiêng Cenote - Mexico
  12. Dwarka là một trong những điểm đến ở Chardham và cũng là địa điểm tôn giáo được tôn kính nhất tại Ấn Độ. Nằm ở mũi phía tây của bán đảo Saurashtra, thành phố này được hàng triệu người hành hương cũng như các học giả lịch sử viếng thăm mỗi năm. Nó chính là vương quốc của Krishna - vị thần chủ chốt trong đạo Hindu. Tương truyền rằng, sau khi rời Mathura và Vridavan thì Ngài bắt đầu sống tại đây. Nhưng thời điểm Krishna rời khỏi thế giới cùng sự sụp đổ của triều đại Yadav, thì toàn bộ thành phố vàng đã bị nhấn chìm trong đại dương. Dwarka có một số ngôi đền như Dwarkadheesh, Somnath và Nageshwar Jyotirlinga,…


    Đền thờ Dwarkadhish, thành lập bởi Adi Shankaracharya (686–717 CN) ở bốn góc của đất nước, nó như một trung tâm tu viện, tạo nên một phần của quần thể đền Dwarka. Được xem là thành phố linh thiêng, Dwarka nổi tiếng với những ngôi đền và là nơi hành hương của người theo đạo Hindu. Ngôi đền, hướng về phía tây, với độ cao 12,19m so với mực nước biển trung bình. Người ta phỏng đoán rằng nó đã 2.500 năm tuổi. Đó là một tòa gồm 5 tầng, xây dựng trên 72 cây cột bằng đá sa thạch. Một lá cờ rất lớn mang biểu tượng mặt trời và mặt trăng được treo ngọn tháp cao tới 78m. Vị thần chính được tôn thờ trong thánh điện là Dwarkadeesh, với miêu tả có bốn cánh tay.


    Bên cạnh lối kiến trúc độc đáo của nơi đây là văn hoá địa phương. Lễ hội chính được tổ chức trong tháng 8 đến tháng 9 là Janmashtami; nó mang lại sự cuồng nhiệt cùng lòng sùng đạo. Vì như đã đề cập, đây được cho là nơi mà Thần Krishna từng ở trong thời tiền sử. Lễ hội này được đánh dấu bằng nhiều lễ kỷ niệm kéo dài suốt đêm, các bài hát cũng như bài giảng chính là một phần của nó. Vào lúc nửa đêm, sẽ có màn biểu diễn tái hiện thời thơ ấu của Thần Krishna dưới hình thức khiêu vũ Garba và Raas.

    Dwarka - Ấn Độ
    Dwarka - Ấn Độ
    Dwarka - Ấn Độ
    Dwarka - Ấn Độ
  13. Tọa lạc tại Istanbul-Thổ Nhĩ Kỳ, nhà thờ Hồi giáo Xanh, hay còn được gọi với tên chính thức là nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed - là một di tích quan trọng của nghệ thuật Hồi giáo thời Ottoman. Được xây dựng từ năm 1609 đến 1616, nó chứa lăng mộ của Ahmed - vị vua cai trị lúc bấy giờ. Những viên gạch vẽ tay là thứ tô điểm cho các bức tường bên trong nhà thờ; và vào ban đêm, khung cảnh sẽ chìm trong màu xanh khi ánh đèn bao quanh 5 mái vòm chính, 6 ngọn tháp cùng 8 mái vòm phụ. Đặc biệt hơn nữa, vị trí của nó nằm ngay bên cạnh Hagia Sophia - nhà thờ Hồi giáo chính tại Istanbul. Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed đã được đưa vào danh sách Di sản Thế giới của UNESCO năm 1985 với tên gọi "Khu vực lịch sử của Istanbul".


    Trong khi những viên gạch màu xanh làm tăng thêm vẻ đẳng cấp cho nội thất của nhà thờ, thì bên ngoài lại cực kỳ lộng lẫy với sự đánh dấu của đường chân trời. Nơi đây có thể chứa khoảng 10.000 tín đồ cùng một lúc. Cấu trúc của nó cũng là ví dụ điển hình nhất về sự phát triển nhà thờ Hồi giáo Byzantine cũng như nhà thờ Ottoman. Sau Hòa bình Zsitvatorok và thất bại nặng nề trong cuộc chiến năm 1603–1618 với Ba Tư, Quốc vương Ahmed I quyết định xây dựng một nhà thờ lớn ở Istanbul để khẳng định lại quyền lực. Nó là nhà thờ Hồi giáo hoàng gia đầu tiên trong hơn 40 năm. Khi những người tiền nhiệm của ông đã trả tiền cho các nhà thờ Hồi giáo của họ bằng chiến lợi phẩm, thì Ahmed I lại mua tiền từ kho bạc, vì ông không đạt được những chiến thắng đáng kể. Công trình bắt đầu xây dựng năm 1609, hoàn thành vào năm 1616. Tuy nhiên, do được nhận lương từ ngân khố công chứ không phải từ chiến lợi phẩm của quốc vương như thường lệ; điều này đã gây ra sự tức giận của các luật gia Hồi giao lúc bấy giờ.


    Với thiết kế là đỉnh cao của hai thế kỷ phát triển nhà thờ Hồi giáo Ottoman. Nó kết hợp nhiều yếu tố Byzantine của Hagia Sophia lân cận cùng lối kiến trúc Hồi giáo truyền thống, nên đây được coi là nhà thờ Hồi giáo vĩ đại cuối cùng của thời kỳ cổ điển. Kiến trúc sư Sedefkar Mehmed Aga đã tổng hợp các ý tưởng của bậc thầy Sinan, hướng đến sự choáng ngợp về quy mô, uy nghi, lộng lẫy. Khu vực phía trên được trang trí với khoảng 20.000 đồ gốm tráng men vẽ bằng tay, cùng 60 mẫu hoa tulip khác nhau. Các tầng thấp hơn được chiếu sáng bởi 200 cửa sổ kính màu. Trước nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed là sân trước với một đài phun nước lớn cũng như khu vực đặc biệt để rửa tội. Có một sợi dây xích lớn được treo lên, chỉ có quốc vương mới có quyền cưỡi ngựa vào đây, đồng thời ông sẽ phải cúi đầu xuống để không va vào dây xích - cử chỉ này mang tính biểu tượng đảm bảo sự khiêm tốn của người cai trị đất nước trước Thánh Allah.


    Vào ngày 30 tháng 11 năm 2006, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã đến thăm Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed trong chuyến đến Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là chuyến viếng thăm thứ hai của Giáo Hoàng trong lịch sử tới một nơi thờ phượng của người Hồi giáo.

    Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed - Thổ Nhĩ Kỳ
    Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed - Thổ Nhĩ Kỳ
    Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed - Thổ Nhĩ Kỳ
    Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed - Thổ Nhĩ Kỳ
  14. Meteora là một trong những quần thể tu viện Chính Thống giáo lớn cũng như quan trọng nhất ở Kalambaka-Hy Lạp. Nơi đây bao gồm 6 tu viện được xây trên các cột đá sa thạch tự nhiên như một cột trụ khổng lồ tại rìa đông bắc của đồng bằng Thessaly, gần sông Peneios và dãy núi Pindus miền trung Hy Lạp. Meteora được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới hỗn hợp theo theo tiêu chí văn hóa và tự nhiên. Nơi đây cũng là một điểm thu hút lớn đối với những người đam mê đi bộ đường dài.


    Nằm cách 5km về phía nam của Meteora là các hang động Theopetra. Bên cạnh đó có bức tường đá chặn hai phần ba lối vào trong hang. Người ta xây dựng lên bức tường này vào 23.000 năm trước đây, có lẽ nó như một tấm bình phong để chắn những cơn gió lạnh. Khai quật từ năm 1987, các hang động Theopetra được biết đến là nơi tốt nhất cho các nhà cổ sinh học, cũng là nơi được sử dụng để sinh sống liên tục ngay từ thời kỳ đồ đá cũ trở đi. Trong thế kỷ thứ IX, một nhóm các ẩn sĩ khổ hạnh đã tới các đỉnh tháp đá nhọn; họ là những người đầu tiên định cư ở Meteora. Những người này sống trong các hốc cùng khe nứt trong các tháp đá, một số trong đó nằm ở độ cao 550m trên khu vực đồng bằng. Điều này khiến nó trở thành nơi biệt lập. Ban đầu, các ẩn sĩ sống cô đơn, chỉ gặp nhau vào ngày chủ nhật hoặc những ngày đặc biệt để cầu nguyện tại một nhà nguyện xây dựng dưới chân tảng đá được gọi là Dhoupiani. Thời gian chính xác mà các tu viện tại đây được lập ra vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, khoảng cuối thế kỷ XI - đầu thế kỷ XII, một tu viện được gọi là Skete của Stagoi đã xuất hiện.


    Đến nay, sáu tu viện tại Meteora cho thấy rõ ràng nhất về sự biến đổi kiến trúc mạnh mẽ, từ một nơi cheo leo hiểm trở trở thành một nơi để tĩnh tâm, thiền định và cầu nguyện. Tất cả được xây dựng trên đỉnh của một khối đá cao trên 400m so với thung lũng Peneas, có nguồn gốc châu thổ. Trong thời gian bất ổn chính trị ở thế kỷ XIV, người ta không thể tiếp cận những tu viện trên núi này để bảo đảm sự an toàn. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XV, đã có 24 tu viện như vậy ra đời. Họ tiếp tục phát triển cho đến thế kỷ XVII. Ngày nay, chỉ 4 tu viện là: Aghios Stephanos, Aghia Trias, Varlaam và Meteoron vẫn còn được sử dụng là nơi cho các cộng đồng tôn giáo.

    Tu viện Meteora - Hy Lạp
    Tu viện Meteora - Hy Lạp
    Tu viện Meteora - Hy Lạp
    Tu viện Meteora - Hy Lạp
  15. Boudhanath là một bảo tháp, và cũng là nơi an táng di hài của Đức Phật Kassapa. Nó nằm trên tuyến đường thương mại cổ xưa từ Tây Tạng đi vào, cách trung tâm và vùng ngoại ô phía đông bắc của Kathmandu-Nepal khoảng 11 km. Kiến trúc độc đáo khiến nó trở thành một trong những bảo tháp hình cầu lớn nhất thế giới. Đây là một địa điểm linh thiêng quan trọng đối với Phật tử Tây Tạng, bốn mặt của đỉnh tháp có bốn mắt Phật đang an tĩnh, quan sát. Được bao bọc bởi một số tu viện, gần 50 ngôi nhà cùng xưởng đầy màu sắc. Năm 1979, Boudhanath vinh dự trở thành Di sản Thế giới được UNESCO công nhận; cùng với Swayambhu - đây là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất khu vực.


    Sau cuộc nổi dậy năm 1959, một số lượng lớn người tị nạn Tây Tạng đã di cư đến Nepal, rồi định cư quanh Boudhanath. Các thương nhân Tây Tạng đã nghỉ ngơi, cũng như cầu nguyện tại bảo tháp này trong nhiều thế kỷ. Họ chứng kiến việc xây dựng hơn 50 tu viện Phật giáo xung quanh đây. Một trận động đất tại Nepal vào tháng 4 năm 2015 làm hư hại nặng tòa bảo tháp, gây ra các vết nứt nghiêm trọng. Do đó, toàn bộ cấu trúc phía trên mái vòm cùng các di tích tôn giáo bên trong đã phải dỡ bỏ, công việc này đã được hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 2015. Quá trình tái thiết bắt đầu vào ngày 3 tháng 11 năm 2015 với nghi thức đặt một cột trung tâm mới cho bảo tháp trên đỉnh mái vòm.


    Nó chính thức mở cửa trở lại từ ngày 22 tháng 11 năm 2016. Việc cải tạo và xây dựng lại tổ chức bởi Ủy Ban Phát triển Khu Vực Boudhanath. Toàn bộ những sửa chữa được tài trợ bởi sự đóng góp tư nhân từ các nhóm Phật giáo cũng như tình nguyện viên. Theo như thông tin được biết, giá trị lên đến 2,1 triệu USD cùng hơn 30kg vàng. Bảo tháp Boudhanath được khánh thành bởi Thủ tướng Pushpa Kamal Dahal. Tuy nhiên, chính phủ Nepal bị chỉ trích rất nhiều vì tốc độ tái thiết chậm, các cấu trúc di sản bị động đất tàn phá như đền thờ, cùng nhiều công trình vẫn chưa được sửa chữa.

    Bảo tháp Boudhanath - Nepal
    Bảo tháp Boudhanath - Nepal
    Bảo tháp Boudhanath - Nepal
    Bảo tháp Boudhanath - Nepal
  16. Angkor Wat là quần thể đền đài ở Campuchia, và là một trong những địa điểm khảo cổ nổi bật nhất tại Đông Nam Á. Nó toạ lạc trên một khu đất với diện tích khoảng 400km2, bao gồm cả diện tích rừng. Kỷ lục Guinness Thế giới coi đây là cấu trúc tôn giáo lớn nhất. Ban đầu Angkor Wat được xây dựng như một ngôi đền Hindu dành riêng cho thần Vishnu của đế quốc Khmer - bởi Vua Suryavarman II trong thế kỷ XII, nhưng sau đó lại dần được chuyển thành một ngôi đền Phật giáo vào cuối thế kỷ. Vì vậy, nó cũng được mô tả là nơi thờ phượng của Phật giáo-Ấn Độ giáo.


    Angkor Wat chính là ví dụ điển hình về phong cách cổ điển của kiến trúc Khmer. Vào thời điểm xây dựng nên ngôi đền này, các kiến trúc sư đã trở nên lành nghề cũng như tự tin hơn trong việc sử dụng đá sa thạch làm vật liệu chính. Hầu hết các khu vực người ta nhìn thấy là những khối đá sa thạch, trong khi đá ong chỉ được sử dụng cho bức tường bên ngoài, cùng các phần cấu trúc ẩn. Nó đã thu hút sự khen ngợi trên hết vì nét hài hòa trong thiết kế, đạt được sự hoàn hảo cổ điển nhờ tính hoành tráng, cân bằng tinh xảo và sự sắp xếp tỷ lệ chính xác. Đó là một công trình của sức mạnh, sự thống nhất cũng như phong cách. Mặt kiến trúc cùng các yếu tố đặc trưng bao gồm: các tháp hình bầu dục, tháp đỏ hình búp sen, nửa phòng trưng bày để mở rộng lối đi, các bậc thang hình chữ thập xuất hiện dọc theo trục chính của ngôi đền. Phần trang trí điển hình là các bức phù điêu, vòng hoa lớn, những hình ảnh tường thuật. Tuy nhiên, một số yếu tố khác của thiết kế đã bị phá hủy do cướp bóc và thời gian; bao gồm vữa mạ vàng trên các tòa tháp, mạ vàng của một số hình trên các bức phù điêu, các tấm trần với cửa ra vào bằng gỗ.


    Năm 1992, sau lời kêu gọi giúp đỡ của quốc vương Norodom Sihanouk, Angkor Wat đã được liệt kê trong Di sản Thế giới đang bị đe dọa của UNESCO (sau đó bị loại bỏ vào năm 2004) và là Di sản Thế giới cùng với lời kêu gọi của UNESCO đối với cộng đồng quốc tế để cứu lấy nó. Năm 1994, việc phân vùng khu vực được chỉ định để bảo vệ khu di tích này, đồng thời một đạo luật bảo vệ di sản Campuchia được thông qua năm 1996.

    Đền Angkor - Campuchia
    Đền Angkor - Campuchia
    Đền Angkor - Campuchia
    Đền Angkor - Campuchia




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy